Tên di sản : Nghè Vích

Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa

Loại di tích : Di tích lịch sử

Sô quyết định : Số 2524/QĐ-UBND

Giới thiệu

Nghè Vích có ba cung quay hướng Đông ở cuối làng. Về phía Nam cách cửa Lạch Trường chừng 800m. Ngôi nghè trước kia có các hệ thống từ ngoài vào trong như sau:

Trước cửa có bốn cột nanh đá, có độ cao khoảng 4m, chiều ngang gần nửa mét, cột cao 0,90m, đế cột vuông mỗi chiều 1,30m. Trên đầu mỗi cột có sấu đá, cột có ghi câu đối nội dung như sau:

Mộng trưng anh miếu Trần sư, đãng địch Đồ Bàn, đương niên Càn Hải lập từ, bảo tằng lai yên vụ giá.

Tích nghi tín hầu tục Tống, thống gian quan Mân Quảng, thử nhật Nhai Sơn tuẫn ốc, thát Chiêm nan nổi tuyết băng tư.

Bốn cột nanh đá hiện nay đã bị sóng đánh sập, đồng thời do sự xâm thực của nước nên diện tích đất của nghè trước kia hiện nay phần lớn đã ở ngoài biển. Ngày nay, đứng trước nghè chúng ta có thể nhìn thấy hai cột nanh đá đang nằm ngoài bãi biển.

Sau bốn cột nanh đá là hệ thống Nghi Môn.

Tiếp theo là một sân rộng, đủ để cho làng mỗi kỳ làm lễ tế.

Tiếp đến là ba cung của nghè: Cung đệ nhất ngoài cùng 5 gian, bày Hương án và hạc thờ, bên trên treo Đại tự và nhiều đồ thờ khác.

Tiếp theo là cung đệ nhị với 4 Long ngai, Giao ỷ và bài vị.

Cung đệ tam bên trong đặt một khám gỗ lớn cao hơn 2m, Chân khám rộng 4m; khám được thếp vàng, trang trí hình mặt nguyệt và lưỡng long.

Hàng năm vào ngày 9 tháng 6 và ngày 30 tháng chạp Âm lịch làng làm lễ tế. Vào các ngày từ 9 đến 12 tháng 6 là ngày giỗ của Tứ vị Thánh Nương, làng tổ chức Lễ hội. Nghè bị phá năm 1957, bài vị và một số đồ thờ được đưa về tập kết ở chùa Vích. Nước biển ăn sâu vào đất liền, nền cũ và cột nanh đá đã bị nước biển vùi lấp. Trong nghè có tất cả 32 đạo sắc phong, (hiện nay chỉ còn lại 29 đạo). Như vậy, sau khi nghè bị phá, quy mô kiến trúc và vị trí tâm linh của Nghè Vích không còn được như trước kia. Tuy nhiên, trong tâm thức của những người dân đi biển luôn luôn mong muốn có một chỗ dựa tinh thần cho mình mỗi khi vào lộng ra khơi có một vị thần che chở, phù hộ cho được sóng yên bể lặng. Do vậy, trong những năm 90 của thế kỷ XX, chính quyền nhân dân xã Hải Lộc đã cùng nhau xây dựng lại nghè, tuy nhiên, do chưa có sự hướng cụ thể của các cơ quan chuyên môn nên nghè mới được xây với quy mô đơn giản, kiến trúc hình chữ Đinh, gồm phía trước là sân đình, một nhà Tiền đường và một gian Hậu cung.

Sân đình có diện tích hơn 50m2, nền sân lát bằng gạch bát.

Nhà Tiền đường có kiến trúc 3 gian, các vì thiết kế theo kiểu chồng rường, Nhà tiền đường đặt hương án thờ hội đồng, hương án cao gần 1m, dài 1,35m, bên trên hương án đặt bát hương đá cổ hình chữ U, cao 50cm, rộng tai 24cm và nhiều đồ thờ có trị. Hai bên có hai hạc chầu bằng gỗ (cổ), có chiều cao 2,5m; bên trên treo bức đại tự mới “Thánh cung vạn tuế”.

Hậu cung là nơi đặt tượng Tứ vị, trong cùng đặt Long Khám gỗ cổ, có chiều cao hơn 2m, Sơn son thếp vàng rất có giá trị, bên trong Long khám đặt thần vị. Hai bên đặt bộ bát bửu và lọng thờ. Phía trước đặt tượng Tứ vị Thánh Nương.

Nhà Tiền đường và Hậu cung có diện tích tổng thể là gần 100m2, thông với nhau hệ thống cửa thẳng hàng, phỏng theo kiến trúc cũ. Từ nhà Tiền đường ra sân bằng ba cửa gỗ bích bàn, tiếp theo là sân gạch và cổng nghè. Ở các xã thuộc huyện Hậu Lộc, như Đa Lộc, Ngư Lộc đều có đền thờ Tứ vị Thánh Nương, nhưng nghè Vích là nơi linh thiêng hơn cả. Xưa kia, nghè Vích được chọn là nơi làm hội đảo Vũ của cả tổng, cả huyện.

Hiện nay, đất đai của nghè do nước biển xâm thực nên còn lại rất nhỏ so với trước kia, diện tích đất hiện tại còn 1297m2 do sự quản lý của UBND xã Hải Lộc.

Các hiện vật trong di tích:

Hiện vật gỗ:

01 bảng Mục lục (do Lê Doan Giai soạn); 04 Tượng (cổ); 01 Long Khám (cổ);  01 Thần vị (cổ); 03 Hương án (cổ); 02 Hạc chầu (cổ); 03 Mâm bồng (cổ); 02 Hòm sắc (cổ); 02 Khay thờ (cổ); 01 đôi câu đối (cổ); 01 Đại tự (mới); 01 bộ Bát Bửu (mới).

Hiện vật đá: 01 Rồng thềm (cổ); 04 Cột đá (cổ); 06 Chân tảng to (cổ); 30 Chân tảng nhỏ (cổ); 01 Bát hương (cổ); 01 Rùa đế lọng (cổ).

Hiện vật giấy:

29 đạo sắc phong cho Tứ vị Thánh Nương:

01 Sắc phong ngày 29 tháng 3 niên hiệu Đức Long thứ 4 (1632)

01 Sắc phong ngày 27 tháng 5 niên hiệu Đức Long thứ 5 (1633)

01 Sắc phong ngày 17 tháng 7 niên hiệu Phúc Thái thứ 3 (1645)

01 Sắc phong ngày 26 tháng 4 niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647)

01 Sắc phong ngày 28 tháng 2 niên hiệu Phúc Thái thứ 7 (1649)

01 Sắc phong ngày 16 tháng 6 niên hiệu Thịnh Đức thứ 3 (1655)

01 Sắc phong ngày 11 tháng 9 niên hiệu Thịnh Đức thứ 5 (1657)

01 Sắc phong ngày 19 tháng 2 niên hiệu Khánh Đức thứ 4 (1652)

01 Sắc phong ngày 29 tháng 1 niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 3 (1660)

01 Sắc phong ngày 18 tháng 4 niên hiệu Cảnh Trị thứ 8 (1670)

01 Sắc phong ngày 27 tháng 7 niên hiệu Dương Đức thứ 3 (1674)

01 Sắc phong ngày 29 tháng 7 niên hiệu Dương Đức thứ 3 (1674)

01 Sắc phong ngày 24 tháng 6 niên hiệu Chính Hoà thứ 4 (1683)

01 Sắc phong ngày 10 tháng 8 niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710)

01 Sắc phong ngày 22 tháng 8 niên hiệu Chiêu Thống nguyên niên (1787)

01 Sắc phong ngày 21 tháng 5 niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 4 (1796)

01 Sắc phong ngày 29 tháng 4 niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1824)

01 Sắc phong ngày 13 tháng 5 niên hiệu Minh Mệnh thứ 5 (1824)

01 Sắc phong ngày 24 tháng 3 niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844)

01 Sắc phong ngày 13 tháng 12 niên hiệu Tự Đức thứ 3 (1850)

01 Sắc phong ngày 24 tháng 11 niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880)

01 Sắc phong ngày 11 tháng 8 niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1909)

01 Sắc phong ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924)

06 đạo sắc của các thời nhưng bị rách (không rõ niên đại)

Hiện vật đồng: 04 Chân nến đồng (cổ).

Hiện vật vải: 02 Lọng thờ (mới).

Nghè Vích

Tài khoản

Video clip

Liên kết

Hoạt động văn hóa nổi bật